(TG) - Hồ Chí Minh không chỉ để lại cho Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam di sản về tư tưởng, đạo đức, phong cách mà có cả một hệ thống phương pháp luận cách mạng đặc sắc. Hệ thống phương pháp luận Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với công cuộc đổi mới và phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn, tiêu biểu nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Từ người Việt Nam yêu nước chân chính trở thành chiến sĩ cộng sản quốc tế vĩ đại, Hồ Chí Minh là người đầu tiên thấy được vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản Việt Nam, đem ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường cho cách mạng Việt Nam. Nhờ nắm vững những đặc điểm và quy luật của thời đại, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, nên đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam và sự phát triển của cách mạng thế giới là đã tìm và xác định được một con đường cách mạng, một hướng đi và tiếp theo đó là một phương pháp để thức tỉnh hàng triệu triệu con người bị áp bức trong các nước thuộc địa và lạc hậu những năm đầu thế kỷ XX.
Đường lối quyết định phương pháp, đồng thời, phương pháp trở thành một trong những yếu tố đảm bảo cho đường lối thành công. Vì vậy, phương pháp luận Hồ Chí Minh là phương pháp luận cách mạng. Nguồn gốc chủ yếu của phương pháp luận đó là từ chủ nghĩa Mác - Lênin, “được Hồ Chí Minh tiếp thu, đã có sự bổ sung, phát triển mang những đặc trưng mới, độc đáo của Hồ Chí Minh trên cơ sở kết hợp những nguyên tắc phương pháp luận Mác-Lênin với những nhân tố duy vật biện chứng của triết học phương Đông, của tư duy truyền thống Việt Nam và rút ra từ cuộc đời hoạt động phong phú, đầy biến cố và những kinh nghiệm ứng nhân xử thế của Người”(1), nhằm giải quyết những vấn đề do thực tiễn Việt Nam, thế giới lúc bấy giờ đặt ra cho chính Người và cho cách mạng Việt Nam. Có thể khẳng định, những thành tựu mà Đảng và dân tộc Việt Nam đạt được trong thời gian qua còn gắn liền với phương pháp luận Hồ Chí Minh. Đó là chỉnh thể của sự thống nhất giữa tư tưởng với phương pháp và đạo đức, phong cách; giữa nhận thức và hành động của Người. Do đó, để tiếp tục có những bước chuyển đột phá trong công cuộc đổi mới, phát triển bền vững đất nước hiện nay thì việc trở lại nghiên cứu phương pháp luận Hồ Chí Minh và vận dụng vào thực tiễn để giải quyết những vấn đề đặt ra trong tiến trình cách mạng Việt Nam là sự lựa chọn có ý nghĩa sâu sắc.
NỘI DUNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN HỒ CHÍ MINH
Một là, từ yêu cầu thực tiễn của Tổ quốc, của dân tộc Việt Nam về độc lập, tự do và ấm no, hạnh phúc mà hành động cách mạng. Trong bối cảnh nước mất nhà tan, nhân dân chịu cảnh lầm than, nô lệ, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh ra đi và tranh đấu, lấy mục tiêu độc lập của dân tộc, tự do của nhân dân, hạnh phúc của đồng bào làm chuẩn mực hành vi, thước đo của hoạt động, tiêu chuẩn của chân lý. Cũng từ mục tiêu cao cả và nhất quán đó, Người đã xử lý, giải quyết vô cùng khéo léo, hài hoà nhiều mối quan hệ. Tiêu biểu là các mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa dân tộc và quốc tế, giữa nội lực và ngoại lực, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa nhân vǎn.
Hai là, kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn, thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn. Hồ Chí Minh tiếp cận với nhiều hệ tư tưởng, nhiều học thuyết và rút ra những giá trị tốt đẹp, tích cực, tiến bộ, chân chính của mỗi hệ tư tưởng, mỗi học thuyết. Theo Người, học chủ nghĩa Mác - Lênin cốt nắm lấy tinh thần, bản chất và phương pháp để xử lý, giải quyết một cách độc lập, tự chủ, sáng tạo mọi quan hệ với con người và công việc.
Ba là, nhạy bén nắm bắt, thấu hiểu, tôn trọng quy luật khách quan để hành động phù hợp, đúng đắn và đi đến thành công. Hồ Chí Minh luôn quan tâm và coi trọng quy luật vận động khách quan của mọi việc, từ sự phát triển của thế giới, trong nước đến nhiều lĩnh vực. Người yêu cầu phải nắm vững quy luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể, kế hoạch phải chắc chắn, chớ đem chủ quan của mình thay cho điều kiện thực tế…
Bốn là, giữ vững nguyên tắc chiến lược kết hợp với mềm dẻo trong sách lược, linh hoạt về phương pháp. Hồ Chí Minh sáng tạo và thực hành đầy bản lĩnh phương pháp cách mạng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Chiến lược một khi đã được xác định đúng còn phải có sách lược mềm dẻo, sát hợp. Người chủ trương phải thực hành tốt một số vấn đề: Khoa học kết hợp với nghệ thuật trong việc tạo thời cơ, chớp lấy thời cơ; “Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ, kiên quyết không ngừng thế tiến công”; “Biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự”; “Thế và lực trong cách mạng và trong phát triển là ở Đại Đoàn kết”,…
Năm là, nhân dân là lực lượng quý nhất, mạnh nhất, phải luôn dựa vào dân, phục vụ nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đấu tranh giành, bảo vệ độc lập tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội đều do nhân dân thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, tất cả mọi nhận thức và hành động phải xuất phát từ dân, từ ý chí, nguyện vọng của dân, vì lợi ích của dân. Trong diễn đạt, nói và viết sao cho giản dị, rõ ràng, chính xác cốt để quần chúng hiểu ngay, hiểu đúng và làm được, làm tốt, làm mau.
Sáu là, cán bộ là gốc, quyết định sự thành bại của mọi công việc,phải dùng cán bộ đúng và khéo. Để cán bộ thực sự là gốc của mọi công việc thì phải đào tạo, huấn luyện cán bộ sao cho đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn cán bộ trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Phải ra sức rèn luyện cán bộ trong đấu tranh, cán bộ phải hết lòng vì dân, vì nước, diệt trừ chủ nghĩa cá nhân, trau dồi đạo đức cách mạng… Phải phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài qua thực tiễn và qua sự tín nhiệm của quần chúng, nhân dân.
Bảy là, quan điểm về phát triển, đổi mới và hướng về cái mới. Hồ Chí Minh có quan niệm đổi mới từ rất sớm, từ khi Đảng chưa ra đời. Hành động sang phương Tây tìm đường cứu nước của Người là bước đánh dấu đầu tiên cho sự đổi mới không chỉ nhận thức mà cả hành động; từ tư duy đến lý luận và thực tiễn. Đổi mới thực sự từ hành động, bằng hành động, thực hiện được các mục tiêu, mục đích: chống giặc ngoại xâm, đánh bại giặc nội xâm, giành lấy hệ giá trị: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Đổi mới gắn liền với phát triển, từ độc lập dân tộc tới chủ nghĩa xã hội, một xã hội giàu mạnh, văn minh, hiện đại và gắn liền với hệ giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
VẬN DỤNG TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã trải qua gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020. Ðại hội lần thứ XIII của Ðảng là dấu mốc quan trọng, có ý nghĩa định hướng tương lai, mang khát vọng và tầm nhìn đưa nước ta trở thành một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ.
Trước vận hội mới, cơ đồ mới của đất nước và dân tộc, càng thấm nhuần sâu sắc những di huấn của Hồ Chí Minh về việc vận dụng một số phương pháp luận sau:
Thứ nhất, có tư duy độc lập, sáng tạo; gắn đổi mới với phát triển bền vững đất nước. Trong Bài nói chuyện về Bản Tổng cương và Điều lệ của Đảng năm 1950, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Học chủ nghĩa Mác - Lênin không phải nhắc như con vẹt “Vô sản thế giới liên hiệp lại” mà phải thống nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nói đến chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam là nói đến chủ trương, chính sách của Đảng. Ví dụ đại đoàn kết”(2). Vì vậy, giáo điều và câu nệ sách vở là xa lạ với bản chất độc lập sáng tạo của tư duy và tư tưởng, phương pháp luận Hồ Chí Minh.
Nhìn lại 90 năm xây dựng và phát triển, nhờ có sự nhạy bén, sáng suốt, đổi mới tư duy, Đảng đã giành chính quyền từ tay phát-xít Nhật trong Cách mạng Tháng Tám. Nhờ có tư duy sáng suốt mà nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi to lớn ở Điện Biên Phủ vang dội năm châu, chấn động địa cầu. Nhờ có tư duy sáng tạo: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” mà Đảng đã hình thành chiến lược để làm nên mùa Xuân đại thắng năm 1975. Có rất nhiều những mốc son chói lọi ghi dấu ấn xuất phát từ đổi mới tư duy của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng.
Ra khỏi cuộc chiến tranh, đất nước Việt Nam bị cấm vận tứ bề, kinh tế chậm phát triển, nhân dân đói, nghèo, Đảng phải làm cuộc cách mạng Đổi mới từ năm 1986. Trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức, đổi mới kinh tế, vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập, Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới. Đổi mới lan tỏa sâu rộng, đã chắp cánh cho bao giấc mơ được hiện thực hóa, để rồi đất nước trong những thập niên sau đó đã vượt qua cái đói, cái nghèo, muôn nhà “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” như chính mong ước khát khao nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tỷ lệ giảm nghèo và tỷ lệ tầng lớp trung lưu tăng hằng năm ở nước ta 15%. Đây là một trong những cuộc vượt đói nghèo vĩ đại nhất trong lịch sử các nước. 35 năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đổi mới mang tầm vóc lịch sử và ý nghĩa cách mạng to lớn, là một quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện triệt để, là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân.
Đổi mới theo Hồ Chí Minh là sự biến đổi theo chiều hướng tích cực. Đó chính là sự thay thế cái cũ, lạc hậu, lỗi thời, thậm chí phản động, cản trở sự phát triển bằng cái mới tiến bộ, lành mạnh, phục vụ cho sự phát triển chứ không phải cái mới bất kỳ. Người chỉ rõ: “Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Thí dụ: Ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: Đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi. Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm. Thí dụ: Ta phải tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước. Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm. Thí dụ: Ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp. Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích của đời sống mới”. Vì vậy, suy ngẫm di cảo của Hồ Chí Minh, chúng ta không những nhận thức được tư duy biện chứng của Người về đổi mới, mà còn có quan điểm về phát triển, đó là sự phát triển hài hòa, phát triển bền vững, nghĩa là phát triển kinh tế đồng thời với phát triển văn hóa, chính trị, xã hội. Người đã có một sự khái quát vấn đề này đạt đến tầm triết lý mang ý nghĩa phương pháp luận như sau: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”(3). Như vậy, quan niệm đúng về phát triển và phát triển bền vững cho thấy rõ vai trò to lớn của văn hóa đối với phát triển vì sự tiến bộ của con người và xã hội.
Hệ thống quan điểm của Đảng về lãnh đạo sự nghiệp phát triển nền văn hóa Việt Nam ngày càng hoàn thiện. Xây dựng và phát triển văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành Văn hóa mà là của tất cả các cấp, các ngành và của toàn xã hội. Văn kiện Đại hội đã XII nhấn mạnh: Các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu: xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Trong hội nhập văn hóa, phải tìm hiểu yếu tố nào là truyền thống, cốt lõi của văn hóa Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng cốt cách của mình, đồng thời, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm cho văn hóa dân tộc. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại”(4); “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường... tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”(5). Qua đó, cho thấy mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế, chính trị và văn hóa ngày càng chiếm vị trí đặc biệt trong đường lối xây dựng và phát triển đất nước, thể hiện tầm nhìn sáng suốt của Đảng về quá trình phát triển bền vững đất nước. Đây cũng chính là sự trở lại với tư tưởng, phương pháp luận Hồ Chí Minh.
Thứ hai, lý luận gắn với thực tiễn, nói đi đôi với làm. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc căn bản trong học thuyết của Mác - Lênin đã được Hồ Chí Minh tiếp thu, học tập và vận dụng sáng tạo trong quá trình nhận thức cũng như trong thực tiễn hoạt động, hành động cách mạng của Người.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn gắn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh hoa văn hóa nhân loại vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, coi đó là “kim chỉ nam” dẫn đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam tiến lên. Cũng chính thực tiễn cách mạng Việt Nam giúp Người bổ sung và hoàn chỉnh lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin không phải trên cơ sở kinh nghiệm chủ nghĩa giáo điều sách vở mà là trên cơ sở của sự thống nhất nhuần nhuyễn giữa lý luận cách mạng và hoạt động thực tiễn cách mạng.
Công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề mới, khó khăn, thách thức, mà không phải mọi vấn đề lý luận và thực tiễn đều đã được lý giải một cách đầy đủ. Vì thế, không chỉ gắn lý luận và thực tiễn trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, mà nguyên tắc này cần được quán triệt trong nhận thức, hành động của Đảng và nhân dân trên tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống. Thấm nhuần nguyên tắc này sẽ giúp cho Đảng và nhân dân tránh vấp phải những sai lầm như trước đổi mới, đồng thời, giải quyết tốt những yêu cầu mà công cuộc đổi mới đặt ra hiện nay nhằm thực hiện thắng lợi những đường lối mang tính đột phá của Đảng trong điều kiện mới.
Đối với Hồ Chí Minh, nói đi đôi với làm là thể hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư tưởng và hành động, nhận thức và việc làm. Đây không chỉ là phương pháp luận mà trở thành lẽ sống, nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng theo tư tưởng của Người. Điều này cũng đúng với tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, mọi vấn đề không chỉ dừng lại ở việc nhận thức mà còn cải tạo thế giới. Đối với mỗi người, để thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với việc làm, phải có nhận thức đúng và quyết tâm vượt qua chính mình. Có nhận thức đúng nhưng không vượt qua được sự cám dỗ của lợi ích cá nhân sẽ dẫn đến nói không đi đôi với làm. Để nói đi đôi với làm, còn cần có sự cố gắng, bền bĩ, dẻo dai, có kế hoạch và quyết tâm, bởi bất kỳ công việc nào, nhiệm vụ gì, dù lớn hay nhỏ, khó hay dễ, phức tạp hay giản đơn, nhưng nếu không ra sức phấn đấu thì cũng không thể thành công được. Nói đi đôi với làm thể hiện bằng kết quả công việc, với những sản phẩm cụ thể. Kết quả công việc là thước đo sự cống hiến của mỗi người. Với các cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo thì lời nói đi đôi với việc làm lại càng quan trọng và cần thiết, vì cán bộ là gốc của mọi công việc, là những tấm gương để quần chúng noi theo. Nói đi đôi với làm còn là biểu hiện của sự gương mẫu, trung thực, trong sáng của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nêu gương trước nhân dân. Bởi “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(6).
Nói đi đôi với làm ở mỗi cán bộ đảng viên và nhân dân thể hiện qua việc cần phải lấy lợi ích quốc gia dân tộc là lợi ích tối thượng, trong đó lợi ích của nhân dân, của tập thể không tách rời với lợi ích quốc gia dân tộc. Đó cũng là mẫu số chung, là nguyên tắc của đại đoàn kết theo quan điểm Hồ Chí Minh. Người là biểu tượng, là linh hồn của khối đại đoàn kết ấy. Người nêu cao sức mạnh đoàn kết bằng chính việc làm, hành vi và hành động của mình, chứ không chỉ là đưa ra định nghĩa và dừng lại ở lời giải thích về đại đoàn kết. Thấu hiểu rằng, có dân chủ thực chất thì mới có đại đoàn kết thật sự, trong suốt quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác lập và hiện thực hóa hệ thống quan điểm về dân chủ trong tổ chức xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa. Hay nói cách khác, một chế độ dân chủ mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội đã được Người khẳng định và quán triệt trong tất cả các lĩnh vực của đời sống của xã hội. Vì vậy, để thực hiện thật hiệu quả công cuộc đổi mới và phát triển bền vững Việt Nam, Đảng và nhân dân cần tiếp tục thường xuyên quan tâm, nghiên cứu, tổng kết và vận dụng, phát triển sáng tạo những quan điểm có tính phương pháp luận này của Người vào thực tiễn cuộc sống.
Thứ ba, bất biến gắn liền với khả biến. Với phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin ở một nước thuộc địa. Trên cơ sở của phương pháp biện chứng duy vật mácxít, Hồ Chí Minh đã làm cho hệ thống phương pháp cách mạng nói chung, phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người nói riêng không chỉ mang tính cách mạng khoa học mà còn mang tính nghệ thuật rất cao. Phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí Minh góp phần đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua những khó khăn, thử thách để làm nên những thắng lợi trong cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới mà Đảng và nhân dân Việt Nam đạt được đã khẳng định sự vận dụng sáng tạo phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí Minh của Đảng trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ. Tuy vậy, trong những năm tiếp theo để tiếp tục đạt được những thắng lợi to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo cho sự phát triển bền vững, Đảng và Nhà nước cần quán triệt hơn nữa phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí Minh theo những nguyên tắc: biết mình, biết người, biết thời, công việc thành công; lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả. Điều này cũng góp phần bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, nhằm ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại âm mưu “chiến thắng không cần chiến tranh” của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng yêu cầu: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(7). Hồ Chí Minh chỉ rõ “xây” phải đi đôi với “chống”, trong đó “xây” là chính. Vì vậy, không chỉ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mà còn cả phương pháp luận của Người chính là một trong những giải pháp hữu hiệu cho việc thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW ngày 18/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, đảm bảo tính bất biến trước muôn vàn khả biến trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay. Thực hiện đúng những nguyên tắc trên là cơ sở, là nền tảng để sự nghiệp đổi mới của nước ta đạt đến mục tiêu mang lại hạnh phúc thật sự cho nhân dân.
Thứ tư, lấy hạnh phúc của nhân dân là mục đích tối thượng gắn liền với lợi ích quốc gia dân tộc trong xu thế hội nhập quốc tế. Quan điểm cơ bản nhất của phương pháp luận Hồ Chí Minh chính là câu nói đanh thép của Người trong cuốn sách Đường Cách mệnh (1927): Cách mệnh! Cách mệnh! Cách mệnh! Hiểu rộng ra, đó là cuộc đấu tranh kiên cường và bền bỉ nhằm xóa chế dộ áp bức, bóc lột, thiết lập chế độ không có áp bức, bóc lột. Con người, nhân dân, các dân tộc làm chủ vận mệnh của mình, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu, đem lại ánh sáng, tự do và hạnh phúc của con người(8).
Quan điểm dân sinh và triết lý nhân sinh trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh đã trở thành quan điểm, triết lý cho phương pháp luận cách mạng Hồ Chí Minh. Tất cả vì cuộc sống ngày một cao đẹp cho mỗi con người và cho cả cộng đồng xã hội. Theo Hồ Chí Minh, con người không thể mưu cầu hạnh phúc nếu chỉ biết trông đợi sự ban phát, hay sự hỗ trợ từ bên ngoài mà phải bắt tay hành động để tự mình giành lấy hạnh phúc cho chính mình và cho mọi người. Chỉ có cải tạo xã hội và thực hiện tiến bộ xã hội con người mới hoàn thiện được chính bản thân mình, thực hiện được ước mơ, mục đích và lý tưởng của mình. Trong suốt cuộc đời đấu tranh của mình, Hồ Chí Minh đã tiến hành đấu tranh không mệt mỏi, cống hiến không tiếc sức mình cho độc lập dân tộc, cho tự do và hạnh phúc của nhân dân. Ngay cả khi từ biệt thế giới này để đến với thế giới người hiền, Hồ Chí Minh vẫn lấy làm tiếc vì không còn được phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Suốt cuộc đời phục vụ, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân nhưng với bản thân Người, Người không hề đòi hỏi bất cứ điều gì cho riêng mình.
Một điểm đặc sắc trong tư duy phát triển bền vững của Hồ Chí Minh còn là khởi đầu và kết thúc mọi vấn đề đều từ con người và gắn con người với mối quan hệ đầu tiên là gia đình. Ngay từ tháng 1/1959, trong bài nói chuyện tại Hội nghị thảo luận dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý đến hạt nhân cho tốt”. Trong vấn đề gia đình, Người đặc biệt quan tâm xây dựng văn hóa gia đình, xem văn hóa gia đình là một trong những điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của gia đình và xã hội Việt Nam, vì theo Người đó là cội nguồn của hạnh phúc con người.
Hiện nay, sau gần 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, trên nền tảng lý luận về gia đình của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam càng nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của gia đình với tư cách là “tế bào” vững chắc của xã hội, là môi trường lành mạnh để xây dựng nguồn lực con người; coi văn hóa gia đình và xây dựng gia đình văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020. Vị trí, vai trò của gia đình, nhất là văn hóa ngày càng được khẳng định và các gia đình Việt Nam ngày càng “khỏe mạnh” hơn để giữ vững vai trò là nền tảng xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo đà cho Việt Nam “cất cánh” nhanh và bền vững.
Chính vì vậy, một trong những điểm mới của văn kiện Đại hội XIII lần này là quán triệt tinh thần đổi mới sáng tạo, khơi dậy giá trị con người Việt Nam, tranh thủ cách mạng công nghiệp lần thứ 4, vì một “Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc”. Yếu tố “hạnh phúc” là một điểm nhấn trong các văn kiện lần này. Điều này đã trở lại đúng tinh thần phương pháp luận cách mạng, nhân văn Hồ Chí Minh.
PGS. TS. Huỳnh Thị Gấm
TS. Nguyễn Thị Việt Hà
Học viện Khu vực 2
-------
(1) Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1997, tr.260-261.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, t, 6, tr. 368.
(3) Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, tr.11.
(4) (5) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.1, tr. 262, tr. 114, tr.183.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 1, tr. 284.
(8) Phạm Văn Đồng: Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998, tr. 31-32.
Nguồn: https://tuyengiao.vn